Đọc hiểu vở kịch Không một tiếng vang

Đọc văn bản sau:

Cảnh I

Ông lão lòa, chị Cả Thuận, anh cả Thuận.

[…] ÔNG LÃO: – Thế chốc nữa lão Thông Xạ nó quay xe lại thì biết nói thế nào với nó đây? Thôi hai con nghe thầy, nên lánh mặt nó đi, cứ để thầy ở nhà một mình, thầy tìm cách khất khứa với nó, họa may nó thấy mù lòa, ốm yếu, nó có động lòng thương chăng…

CHỊ CẢ: – Lão ấy nó còn thương ai. Nếu nó có lòng thương người, nó đã chẳng xử với mình đến thế.

ÔNG LÃO: – Chả hơn cả ba bố con ngồi trơ ra đây mà tiền không có trả nó, để điên tiết lên nó thẳng tay quăng đồ đạc ra đường hoặc gọi đội xếp thưa bắt hai chúng mày về bóp thì có phải khổ cả không…

CHỊ CẢ: – Nào, thế cậu định ra sao đây?

ANH CẢ: – Định à? Chỉ còn một sống một chết, muốn đằng nào thì muốn, chứ sống ngắc ngoải thì không nên sống. Bàn đến kế tránh mặt nó đi thì không xong rồi. Liệu có tránh được mãi không? Dẫu nó không thưa để mình phải vào bóp mà chỉ vứt đồ ra đường, thì tôi cũng không còn bụng dạ nào làm ăn gì nữa… Ruột gan tôi có phải sắt đá đâu? Giời ơi, nghĩ đến vợ đang dắt bố già lang thang đầu đường xó chợ mà vẫn thản nhiên đi làm cho thằng khác ăn, có là con vật không thương yêu ai, dại như chó thì mới thế được. Mà đi làm về thì ăn vào đâu? Không được ăn mà vẫn đi làm à? Đây này: tôi bây giờ chán cả mọi sự rồi, đi làm tôi cũng không thiết nữa. Phải biết thời buổi này mới được. Tôi mà vô gia cư, tất không thoát tù tội. Vợ tôi mà vô gia cư, tất không thoát được lục sì. Ông mà vô gia cư, rồi người ta sẽ nhét ông vào bọn ăn mày ngoại ô. Sống ngắc ngoải thế này mà vẫn còn tưởng sống.

CHỊ CẢ: – Nông nỗi đã thế này, chẳng nhẽ cứ để mặc nó muốn nghiêng thì nghiêng, muốn ngửa thì ngửa, đành bó tay chịu chết?

[…] ANH CẢ: – (…) Ăn ở hiền hậu mà cứ vận hạn mãi… Đến thế mà còn tin được Giời, Phật nữa à? (thất vọng). (…) Giời Phật, có để làm gì, hở? Có phải chỉ để làm bù nhìn mặc cho loài người chúng nó ăn thịt nhau, thằng nào xỏ lá, bất nhân, lắm ngón xoay tiền thì được vợ đẹp, con khôn, lên xe xuống ngựa; còn người hiền lành thật thà thì bị lợi dụng, bị đè nén, bị hắt hủi, kiếm chẳng đủ áo mặc cơm ăn có phải không? Có Giời, có Phật mà đến thế à? Không có Giời, Phật nào cả. Hoặc có Giời, có Phật nhưng Giời, Phật không đủ quyền phép thiêng liêng, không công minh, không đáng cho ai kính thờ! Bây giờ ấy à? Chỉ có đồng tiền là Giời, là Phật, chỉ có đồng tiền là đáng kính thờ vì nó sai khiến được mọi người, ai ai cũng phải kính thờ nó mới sống được. Lương tâm à? Còn thua đồng tiền! Luật pháp à? Chưa bằng đồng tiền! Giời Phật à? Còn kém đồng tiền!

ÔNG LÃO: (không nói được nữa, chỉ kêu): Ôi giời ơi! Để tôi chết đi cho rảnh! Cho tôi chết đi!

CHỊ CẢ: (tất tả vào bếp, xách ra một chiếc chậu thau) – Cậu cứ ở nhà với thầy, tôi đi đằng này một lát.

ANH CẢ: – Định xách chậu đi đâu thế?

CHỊ CẢ: – Để lại cho bác phó. Hôm nọ sang chơi, bác ta có ý muốn mua lại, bây giờ tôi đem sang lấy vài hào về mua bát cháo với lọ dầu cho thầy. Thầy bảo cồn ruột chắc chỉ vì đói quá.

ANH CẢ: – Này, gượm! Người ta bảo đã mà lại. Lúc nãy tôi tạt chơi bên ấy rồi. Hiện bây giờ thằng bé con đang lên sởi, hai vợ chồng chạy thuốc đã méo mặt cả, mua bán gì? Chính tôi cũng còn nợ người ta năm hào mà chưa trả được, lúc nãy vào khất đấy…

CHỊ CẢ: (thất vọng đờ đẫn cả người, ra ngồi đắp chiếu cho bố).

ÔNG LÃO: (nằm trong chiếu, vẫn quằn quại kêu rên) – Ôi giời đất ơi, ôi giời đất ơi!

ANH CẢ: (ứa nước mắt, vùng đứng lên rảo bước ra đến cửa, dừng chân ngẫm nghĩ một lát, quay lại nhìn ông bố, rồi đẩy tung cửa ra đi).

CHỊ CẢ: (đang gục mặt, ngẩng lên nhìn rồi hốt hoảng, vùng dậy chạy theo) – Giời ơi! Cậu lại định đi đâu…Cậu! Cậu…Giời ơi, thầy ơi thầy, rõ khổ chưa!

ÔNG LÃO: (tung đống chiếu ra, lật đật ngồi lên gọi) – Ới cả! Ới Thuận!!! (vùng lên chạy ba bước, rồi lả người đi) con mau chạy theo gọi nó lại cho thầy (ngã gục xuống đất).

CHỊ CẢ: (nửa muốn chạy đi gọi chồng, nửa muốn lại nâng bố lên, luống cuống, sau cùng thì quay lại đỡ bố) – Thầy ơi, thầy ngã có đau không? Rõ khổ!

ÔNG LÃO: (khặc khừ, lắc đầu, lả đi)

CHỊ CẢ: (tay run lẩy bẩy, hết sức dìu bố, dẫn lại chỗ chõng tre, để cho ông lão ngồi được yên rồi lả xuống cạnh đấy bất tỉnh nhân sự).

(Trích vở bi kịch nhân sinh Không một tiếng vang, Vũ Trọng Phụng, in trong
Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, Tr.358-364)

Đọc hiểu vở kịch Không một tiếng vang

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn)

Câu 1: Những nhân vật nào xuất hiện trong đoạn trích?

Click vào đây để xem đáp án

Những nhân vật xuất hiện trong đoạn trích: Ông lão lòa, chị Cả Thuận, anh Cả Thuận, lão Thông Xạ

Câu 2: Theo chị Cả thì lão Thông Xạ là người như thế nào?

Click vào đây để xem đáp án

Theo lời chị Cả, lão Thông Xạ là người: không có tình thương

Câu 3: Nêu ngắn gọn nội dung của đoạn văn sau:

“Ăn ở hiền hậu mà cứ vận hạn mãi. Đến thế mà còn tin được Giời, Phật nữa à? (thất vọng). (…) Giời Phật, có để làm gì, hở? Có phải chỉ để làm bù nhìn mặc cho loài người chúng nó ăn thịt nhau, thằng nào xỏ lá, bất nhân, lắm ngón xoay tiền thì được vợ đẹp, con khôn, lên xe xuống ngựa; còn người hiền lành thật thà thì bị lợi dụng, bị đè nén, bị hắt hủi, kiếm chẳng đủ áo mặc cơm ăn có phải không? Có Giời, có Phật mà đến thế à? Không có Giời, Phật nào cả. Hoặc có Giời, có Phật nhưng Giời, Phật không đủ quyền phép thiêng liêng, không công minh, không đáng cho ai kính thờ! Bây giờ ấy à? Chỉ có đồng tiền là Giời, là Phật, chỉ có đồng tiền là đáng kính thờ vì nó sai khiến được mọi người, ai ai cũng phải kính thờ nó mới sống được”.

Click vào đây để xem đáp án

Nội dung của đoạn trích:

– Chỉ ra thực trạng bất công trong xã hội: những kẻ xỏ lá, bất nhân, lắm ngón, nhiều chiêu lại có tất cả; những người hiền lành, thật thà, tốt bụng thì bị đè đầu cưỡi cổ trở nên trắng tay.

– Con người sống vì đồng tiền, bất chấp luân lý, đạo đức, khiến cho những người lương thiện dần mất đi niềm tin về lẽ phải ở đời.

Câu 4: Anh/ chị có đồng tình với quan điểm của nhân vật Cả Thuận: Lương tâm à? Còn thua đồng tiền! Luật pháp à? Chưa bằng đồng tiền! Giời Phật à? Còn kém đồng tiền! không? Lí giải vì sao?

Click vào đây để xem đáp án

Học sinh được tự do bày tỏ quan điểm, miễn là có lý giải thuyết phục. Tham khảo:

– HS có thể đồng tình/có thể không đồng tình hoặc vừa đồng tình vừa không đồng tình

– Lí giải:

+ Đồng tình, vì quan điểm của cả Thuận đã phản ánh đúng cái bộ mặt phi nhân tính của xã hội thành thị Việt Nam trước Cách mạng dưới sự cai trị của bọn thực dân, phong kiến: một xã hội xuống cấp về đạo đức, đồng tiền trở thành thước đo cho mọi giá trị.

+ Không đồng tình, vì dù cho đồng tiền có sức mạnh ghê gớm như vậy, nhưng nếu con người đủ bản lĩnh, vẫn có thể chiến thắng sức cám dỗ của nó để bảo vệ những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của bản thân mình (như ông già mù hay người con dâu trong đoạn trích, thà đói, thà chịu chết chứ nhất định không vi phạm đạo đức, không kiếm tiền bất chấp mọi thủ đoạn).

Câu 5: Qua đoạn trích, anh chị hãy nhận xét nghệ thuật viết kịch của Vũ Trọng Phụng.

Click vào đây để xem đáp án

Nhận xét nghệ thuật viết kịch của Vũ Trọng Phụng

– Đoạn kịch được xây dựng theo lối kết cấu mở, cốt truyện vận động theo mạch phát triển của các sự kiện, biến cố rất tự nhiên và hợp lí

– Mâu thuẫn, xung đột kịch đầy lên cao trào, đầy kịch tính

– Xây dựng nhân vật trong tác phẩm kịch độc đáo, tinh tế. các tình huống kịch hấp dẫn gây ấn tượng sâu sắc.

– Ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao…

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *