Đọc hiểu thơ: Mộ Đỗ Liễu Thăng ở Lỗi Dương

Đọc văn bản sau:

Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 2

(Mộ Đỗ Thiếu Lăng [1] ở Lỗi Dương [2] – bài 2)

– Nguyễn Du –

Phiên âm: 

Mỗi độc nho quan đa ngộ thân([3]),

Thiên niên nhất khốc Ðỗ Lăng nhân.

Văn chương quang diễm thành hà dụng,

Nam nữ thân ngâm([4]) bất khả văn.

Cộng tiển thi danh sư bách thế,

Ðộc bi dị vực ký cô phần.

Biên chu giang thượng đa thu tứ,

Trướng vọng Lỗi Dương nhật mộ vân.

Dịch nghĩa:

Mỗi lần đọc câu thơ “mũ áo nhà nho thường làm lụy thân mình”

Lại khóc Đỗ Thiếu Lăng, người nghìn năm trước.

Văn chương sáng ngời xong dùng được việc gì,

Mà để bầy con rên khóc chẳng đành lòng nghe.

Ai cũng khen tài thơ là bậc thầy muôn thuở,

Riêng ta thương cho ông phải gửi nấm mồ cô quạnh nơi đất khách.

Một chiếc thuyền con trên sông, tứ thu dào dạt,

Buồn ngắm mây chiều vùng Lỗi Dương.

Dịch thơ:

Mỗi lần đọc “Mũ nho thân lụy”,

Lại khóc thương người cũ Ðỗ Lăng.

Ích gì ngời sáng thơ văn,

Bầy con kêu đói sao đành lòng đây?

Ai cũng khen thơ thầy muôn thuở

Riêng ta thương phần mộ đìu hiu.

Thuyền sông thu nhớ thêm nhiều,

Buồn trông theo đám mây chiều Lỗi Dương.

(Bản dịch của Đặng Thế Kiệt, nguồn: https://www.thivien.net)

Chú thích:

[1] Ðỗ Thiếu Lăng: tức Đỗ Phủ (712 – 770), nhà thơ vĩ đại đời Đường, Trung Quốc.

[2] Lỗi Dương: ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Năm 770, Ðỗ Phủ đến huyện Lỗi Dương lên núi yết Nhạc miếu, bị nước lụt dâng ngót mười hôm không trở về được. Quan huyện Lỗi Dương nghe tin bèn thân hành đưa thuyền đến đón. Về đến huyện, Ðỗ Phủ uống rượu say rồi mất. Gia đình nghèo không đưa hài cốt về quê được phải táng ở Lỗi Dương. Bốn mươi ba năm sau (813), cháu là Ðỗ Tự Nghiệp mới dời di hài Đỗ Phủ về chôn gần mả tổ tại núi Thú Dương, tỉnh Hà Nam. Nguyễn Du đi qua vùng Hồ Nam, Hồ Bắc (Trung Quốc) vào mùa thu năm Quý Dậu (1813), tìm viếng mộ Đỗ Phủ ở Lỗi Dương, tức là một nghìn năm sau khi mả của Ðỗ Phủ đã dời về núi Thú Dương, cho nên dấu tích ngôi mộ ở Lỗi Dương đã mờ mịt, không còn ai biết nền cũ nằm ở chỗ nào.

[3] Nho quan đa ngộ thân: đây là một câu thơ trong bài Phụng tặng Vi Tả thừa trượng nhị thập nhị vận của Ðỗ Phủ.

[4] Nam nữ thân ngâm: trong bài Càn Nguyên trung ngụ Ðồng Cốc huyện tác ca, thất thủ chi nhị (Năm Càn Nguyên ở huyện Ðồng Cốc, làm bảy bài ca – bài 2) có đoạn tả cảnh mùa đông, Ðỗ Phủ đầu bạc tóc rối đi đào khoai rừng. Nhưng tuyết xuống nhiều quá, phải về không: Nam nữ thân ngâm tứ bích tĩnh (Con trai gái kêu than, bốn vách lặng ngắt). Nguyễn Du, trong tập Nam trung tạp ngâm, bài Ngẫu đề có một câu tương tự: Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc. Quách Tấn dịch là: Mười miệng đòi cơm ngoài cõi bắc (Tố Như thi, Quách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995, trang 140).

Đọc hiểu thơ: Mộ Đỗ Liễu Thăng ở Lỗi Dương

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định thể thơ của bản phiên âm và bản dịch thơ.

Click vào đây để xem đáp án

Thể thơ của bản phiên âm và bản dịch thơ:

– Bản phiên âm: Thất ngôn bát cú Đường luật;

– Bản dịch thơ: Song thất lục bát.

Câu 2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai?

Click vào đây để xem đáp án

Nhân vật trữ tình trong bài thơ là: tác giả Nguyễn Du.

Câu 3. Phân tích tác dụng của phép đối ở hai câu thực của bài thơ.

Click vào đây để xem đáp án

Tác dụng của phép đối ở hai câu thực:

Văn chương quang diễm thành hà dụng,

Nam nữ thân ngâm bất khả văn.

(Văn chương sáng ngời xong dùng được việc gì,

Mà để bầy con rên khóc chẳng đành lòng nghe.)

– Tạo nhịp điệu, tạo sự cân xứng hài hòa cho lời thơ.

– Nhấn mạnh sự đối lập giữa một bên là tài năng và một bên là sự đói nghèo, túng quẫn, bên này là văn chương và bên kia là hiện thực cuộc đời chua chát,…

– Thể hiện sự đồng cảm, xót xa của tác giả trước số phận bi kịch của Đỗ Phủ.

Câu 4. Nhận xét về tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình thể hiện trong bài thơ.

Click vào đây để xem đáp án

Nhận xét về tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình thể hiện trong bài thơ:
– Ở 6 câu đầu, Nguyễn Du bày tỏ tấm lòng xót thương, đồng cảm với bi kịch của Đỗ Phủ – người sống cách ông cả nghìn năm trước, đó là bi kịch của con người có tài năng nhưng cuộc đời chìm nổi long đong, nhiều đắng cay, nghiệt ngã. Từ việc thấu tỏ nỗi cô đơn của bậc thánh thi khi chứng kiến phần mộ hiu hắt, đến 2 câu cuối, Nguyễn Du thể hiện những suy ngẫm về cuộc đời của chính mình, thấy được mối đồng điệu với cuộc đời của Đỗ Phủ, từ đó dâng lên nỗi buồn thương cho chính phận mình. Có lẽ tất cả rồi cũng sẽ trở về với hư vô như đám mây chiều Lỗi Dương mà thôi.

– Tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ có sự vận động: từ thương người hướng về nỗi thương thân. Sự vận động này có thể tìm thấy trong nhiều bài thơ khác của Nguyễn Du. Đây chính là nét mới mẻ, sâu sắc trong ngòi bút nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du.

Câu 5. Qua văn bản, anh/chị hãy rút ra một bài học mà anh/chị thấy có ý nghĩa nhất và giải thích lí do.

Click vào đây để xem đáp án

Rút ra một bài học có ý nghĩa nhất và giải thích lí do. Gợi ý:

– Cần biết trân trọng những người có tài năng, những người làm ra giá trị tinh thần cho xã hội, bởi nhờ có họ mà đời sống mới phong phú, tâm hồn con người mới được vun đắp,…

– Cần có sự đồng cảm, sẻ chia với những số phận bất hạnh, bi kịch, bởi chỉ có yêu thương mới giúp xoa dịu nỗi đau của con người, giúp con người vượt lên nghịch cảnh và có cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc hơn,…

– Bài học về mối quan hệ giữa văn chương và cuộc đời: văn chương phải gắn liền với cuộc đời; nếu chỉ ôm mộng văn chương mà quên đi những lo toan về cơm áo gạo tiền thì cũng chỉ có bất hạnh và khổ đau, khi đó văn chương cũng chỉ là vô nghĩa;…

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *