Đọc hiểu truyện Tàu đi Hòn Gai

ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)

Đọc văn bản:

TÀU ĐI HÒN GAI

Tàu của những người nghèo.

Những tâm trạng và nỗi buồn không có cách gột bỏ nào rẻ tiền và dễ dàng hơn là rải nó dọc một tuyến đường biển dài, khi tiếng xế địp[1] lục bục đẩy anh xê dịch chỉ 4 hải lý một giờ đi sâu mãi vào cái hư ảo của Hạ Long.

Ngồi đối diện với tôi là người đàn ông luống tuổi, tóc bạc một cách cục cằn. Những đường nhăn không quy luật khó đoán định kẻ lên bộ mặt xạm đen vì nắng gió. Ông bảo ra Trà Cổ “tìm thằng con bất hiếu”. Nó về xin ông chia gia tài để cấp vốn cho con vợ đi buôn hàng Trung Quốc. Ông từ chối. Nó đào trộm nền nhà, cuỗm sạch của ông số vàng dưỡng lão. “Năm cây vàng của tôi chứ có ít ỏi gì” – Ông nói.

Bên cạnh tôi là một bà mù, đi với đứa con út đang ngủ gà ngủ gật. Bà còn trẻ, mắt mở to như mắt người sáng, nét mặt không một nếp nhăn và bình thản. Không thể tưởng tượng được đôi mắt ấy không còn nhận được ánh sáng, và mặt biểu chiều rực rỡ trên vịnh Hạ Long đối với bà chỉ còn là đêm tối mênh mông. Bà chăm chú nghe chuyện của chúng tôi theo cung cách và điệu bộ của người mù, sự chăm chú của toàn bộ cơ thể. Bà nói: “Thưa các ông, mỗi cây mỗi hoa mới gọi là đời. Tôi xin kể các ông nghe một chuyện mắt thấy tai nghe từ thời tôi còn nhỏ… – Bà hướng về người đàn ông – Xin ông đừng buồn, thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông”.

Câu nói như an ủi được phần nào người cha đau khổ, ông nghiêng người ra phía trước, lắng nghe. Người đàn bà mù kể:

– Hồi lên mười, mắt tôi còn sáng. Cạnh nhà tôi có một bà cụ mù. Bà góa chồng từ lúc còn trẻ nhưng ở vậy nuôi con. Rồi bị một cơn thiên đầu thống[2] thế là mù hẳn. Anh con trai cưới vợ. Cả xóm nghèo ai cũng có tiền mừng, mọi người tự đặt vào bàn tay bà cụ. Ở chỗ tôi những người sáng mắt cũng còn chật vật lắm mới kiếm được miếng ăn, huống gì bà. Cưới được nàng dâu tốt nết, chắc đời bà đỡ khổ. Nhưng có ai ngờ anh con! Sau ngày anh có vợ, người ta đã xì xầm về anh những chuyện tày trời. Thế rồi một hôm, sang nhà con bạn chơi, tôi thấy nó đang chúi mũi vào một lỗ thủng trên vách đất, nhìn sang gian nhà của bà cụ mù. Nó vẫy tay tôi lại. Các chư ông có biết tôi nhìn thấy chuyện gì không? Cả nhà bà cụ đang ngồi bên mâm cơm.

Trên mâm có một đĩa rau luộc, một đĩa thịt kho vàng. Bà cụ ngồi nhai cơm. Anh con trai đang bặm môi dùng hai chiếc đũa đẩy đĩa thịt về phía vợ. Còn chị con dâu, mặt đỏ bừng vì xấu hổ, chống lại chồng bằng cách lấy đũa đẩy cái đĩa sang phía mẹ chồng. Cả hai giằng co nhau trên cái mâm, trong im lặng. Chỉ còn nghe tiếng nhai trệu trạo của bà mẹ. Lúc đó tôi nghĩ bà không biết gì. Trước mắt bà chỉ là đêm tối, như trước mắt tôi bây giờ cũng chỉ là đêm tối… Cầu trời cho các chư ông đừng bao giờ phải nhìn thấy cái cảnh tôi nhìn thấy đó. Hai năm sau, bà mẹ treo cổ tự vẫn ngay trong nhà, chị con dâu đẻ được một đứa con trai thì ôm con về nhà mẹ. Nhưng anh con trai lại làm ăn tấn tới, mua được nhà khác và dọn đi. Giờ đây, khi đã bị mù, tôi mới biết là mình đã nhầm. Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm!

Người đàn ông nức to lên một tiếng. Mặt ông tái xám đi trong nắng chiều. Tôi nghĩ là câu chuyện đau buồn kia đã chạm đến vết thương lòng của ông. Tôi đưa ông lọ dầu gió: “Bác khó ở?…”. Ông xua tay rồi đứng dậy, bước tới phía mũi tàu. Đôi vai to bè oằn xuống trên tấm lưng mềm nhũn như không còn cột sống chống đỡ. Tôi bỗng nghĩ đến cái chết của bà mẹ mù trong câu chuyện đang làm tôi run cả người lên. Đàn ông cũng chẳng cứng rắn gì hơn đàn bà. Trên đường ra vịnh đã có bao nhiêu cuộc đời tìm cách tự giải thoát vào làn nước xanh thẫm này. Tôi quả quyết đứng dậy, đi theo người đàn ông. Ông đã ngồi xuống đống dây chão trên lỗ neo. Tôi bước lại gần, cố nghĩ cách làm ông khuây khỏa: “Ngày mai mới có tàu ra Trà Cổ. Nhà tôi ở gần núi Bài Thơ, nếu tiện xin mời bác…”.

Người bạn đường nhìn tôi với đôi mắt biết ơn. Nhưng một khoảng trống mênh mông hiện ra trong mắt ông, trong cái nhìn mà tôi không thể nào mô tả nổi, một nỗi xót xa, ân hận hay thứ tình cảm gì gần như thế đang làm đôi đồng tử mắt ông to ra, như ông đang hấp hối. Linh tính mách bảo tôi một điều: người đàn ông này phải nói câu gì đó với tôi hay bất kỳ ai khác. Nếu không ông sẽ gục xuống. Tôi đã không nhầm. Ông nói:

– Cám ơn ông. Nhưng tôi không ra Trà Cổ làm gì nữa. Tôi thế là đáng đời. Ông biết không, tôi đã nhận ra bà mù ấy. Bốn mươi năm trước bà ta là cô bé hàng xóm của hai mẹ con tôi.

(Nguyễn Quang Thân, 100 truyện hay cực ngắn,

Tạp chí Thế giới mới – NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1999)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Chỉ ra các từ ngữ thể hiện sắc thái thân mật trong những câu văn sau: Bà nói: “Thưa các ông, mỗi cây mỗi hoa mới gọi là đời. Tôi xin kể các ông nghe một chuyện mắt thấy tai nghe từ thời tôi còn nhỏ… – Bà hướng về người đàn ông – Xin ông đừng buồn, thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông”.

Câu 2. Liệt kê những chi tiết miêu tả phản ứng của người đàn ông ngay sau khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà mù.

Câu 3. Phân tích tác dụng của việc lựa chọn ngôi kể trong văn bản.

Câu 4. Giải thích nội dung câu nói của người đàn bà mù với người đàn ông: Giờ đây, khi đã bị mù, tôi mới biết là mình đã nhầm. Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm!

Câu 5. Xác định thông điệp có ý nghĩa nhất đối với anh/chị và lý giải tại sao.

VIẾT (6,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật người đàn ông sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà mù trong truyện ngắn Tàu đi Hòn Gai của tác giả Nguyễn Quang Thân.

Hướng dẫn chấm

Phần/

Câu

Nội dung
I. ĐỌC HIỂU
1 Các từ ngữ thể hiện sắc thái thân mật trong các câu văn: thưa các ông, xin kể, xin ông đừng buồn, thằng con ông.

Hướng dẫn chấm:

– Cho 0,5 điểm nếu học sinh trả lời được 03 đến 04 từ/cụm từ như đáp án.

– Cho 0,25 điểm nếu học sinh trả lời được 01 đến 02 từ/cụm từ như đáp án.

– Không cho điểm nếu học sinh trả lời khác đáp án hoặc không trả lời.

2 Những chi tiết miêu tả phản ứng của người đàn ông ngay sau khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà mù: nức to lên một tiếng, mặt tái xám đi trong nắng chiều

Hướng dẫn chấm:

+ Cho 0,5 điểm nếu học sinh xác định được 02 chi tiết.

+ Cho 0,25 điểm nếu học sinh xác định được 01 chi tiết.

+ Không cho điểm nếu học sinh xác định sai hoặc không trả lời.

3 – Xác định ngôi kể trong văn bản: ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng tôi.

– Tác dụng:

+ Người kể chuyện chứng kiến và tham gia vào câu chuyện, quan sát các nhân vật trên chuyến tàu đi Hòn Gai, từ đó giúp câu chuyện và các nhân vật hiện lên chân thực, sống động, rõ nét.

+ Người kể chuyện hạn tri, không biết rõ mọi điều về sự việc và các nhân vật, khiến câu chuyện diễn biến tự nhiên, kết thúc bất ngờ, giúp bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

+ Tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn cho văn bản; sự gần gũi, đồng cảm của người đọc.

Hướng dẫn chấm

+ Cho ý thứ nhất 0,25 điểm.

+ Cho ý thứ hai 0,75 điểm (mỗi nội dung 0,25 điểm; học sinh có thể trả lời như đáp án hoặc diễn đạt tương đương).

+ Không cho điểm nếu học sinh trả lời sai hoặc không trả lời.

4 Giải thích nội dung câu nói của người đàn bà mù với người đàn ông: Giờ đây, khi đã bị mù, tôi mới biết là mình đã nhầm. Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm!

– Khi đã bị mù, người đàn bà mới hiểu ra rằng: Người mù vốn không nhìn thấy ánh sáng và mọi thứ xung quanh, nhưng lại nhạy cảm, có thể nhìn rõ được bản chất, sự thật của đời sống, con người…

– Từ đó, câu nói cho thấy sự vỡ lẽ, nhận thức sâu sắc về cách nhìn nhận, đánh giá con người, cuộc sống của nhân vật …

Hướng dẫn chấm:

 + Cho 0,75 điểm cho ý 1 nếu học sinh trả lời được như đáp án; cho 0,5 điểm nếu học sinh trả lời được vế 2 của ý 1; cho 0,25 điểm nếu học sinh chỉ trả lời được vế 1.

+ Cho 0,25 điểm cho ý 2.

+ Không cho điểm nếu học sinh trả lời sai hoặc không trả lời.

5 – Xác định thông điệp có ý nghĩa nhất đối với bản thân trong truyện ngắn.

Gợi ý: Phải luôn có hiếu với cha mẹ; Cha mẹ là tấm gương để con cái học hỏi, noi theo; Trải qua những thăng trầm của cuộc sống càng thấm thía hơn công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ; Gieo nhân nào gặt quả nấy…

– Lí giải hợp lí.

Hướng dẫn chấm:

+ Cho 0,5 điểm nếu học sinh rút ra được thông điệp phù hợp với nội dung văn bản.

+ Cho 0,5 điểm nếu học sinh lí giải thuyết phục; cho 0,25 điểm nếu học sinh chỉ lí giải chung chung, chưa đủ thuyết phục.

+ Không cho điểm khi học sinh không trả lời hoặc có câu trả lời xa yêu cầu.

II VIẾT
1 Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật người đàn ông sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà mù trong truyện ngắn Tàu đi Hòn Gai của tác giả Nguyễn Quang Thân.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn

– Đảm bảo yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ, cộng trừ 100 chữ) của đoạn văn.

– Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo lối diễn dịch, quy nạp, phối hợp hoặc song song.

Hướng dẫn chấm:

+ Đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng của đoạn văn: 0,25 điểm

+ Không đáp ứng yêu cầu về hình thức đoạn văn và dung lượng: 0 điểm

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: diễn biến tâm trạng nhân vật người đàn ông sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà mù trong truyện ngắn Tàu đi Hòn Gai của tác giả Nguyễn Quang Thân.

Hướng dẫn chấm:

+ Xác định đúng và tập trung làm rõ vấn đề nghị luận: 0,25 điểm

+ Chưa xác định đúng vấn đề nghị luận, lạc đề: 0 điểm

c. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu

Học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau, miễn là hợp lí và thuyết phục; cần xem xét trừ điểm các lỗi về hình thức và diễn đạt. Tham khảo cách triển khai và một số nội dung cụ thể sau:

c1. Chỉ ra được diễn biến tâm trạng của nhân vật người đàn ông sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà mù qua những chi tiết về thái độ, hành động, lời nói, tâm trạng.

Có thể nêu một số biểu hiện sau:

–  Bàng hoàng, đau đớn khi nhận ra thằng con bất hiếu trong câu chuyện của người đàn bà mù chính là mình.

–  Ân hận, day dứt, xót xa vì mình cư xử tệ bạc dẫn đến cái chết của người mẹ.

–  Chấp nhận hậu quả của việc mình làm trong quá khứ: sự tệ bạc của con trai là điều tất yếu mà ông phải gánh chịu.

c2. Nêu được ý nghĩa của diễn biến tâm trạng đó.

Tham khảo gợi ý sau:

–  Khắc họa sự thức tỉnh sâu sắc của nhân vật về trách nhiệm gánh chịu hậu quả của cách sống tệ bạc của mình.

–  Góp phần bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm: Phê phán những người con đối xử tệ bạc với cha mẹ mình; nhắc nhở cách sống của bậc cha mẹ sẽ là tấm gương ảnh hưởng đến con cái.

Hướng dẫn chấm:

– Cho 0,75 điểm nếu nêu được ý c1 với 3 biểu hiện nêu trên hoặc tương tự; cho 0,5 điểm nếu viết được 2 biểu hiện nêu trên hoặc tương tự; cho 0,25 điểm nếu chỉ viết được 1 biểu hiện nêu trên hoặc tương tự.

– Cho 0,5 điểm cho ý c2 nếu đủ, đúng ý; cho 0,25 điểm nếu chỉ nêu được 01 ý nghĩa.

– Cho 0,25 điểm nếu diễn đạt hay và có ý sáng tạo.

– Trừ điểm các lỗi (sai chính tả, diễn đạt lủng củng, dùng từ và chấm câu sai, chữ viết cẩu thả) trừ 0,5 điểm nếu đoạn văn mắc từ 5-7 lỗi; mắc trên 7 lỗi trừ 0,75 điểm (không vượt quá nửa số điểm cả câu).

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *